Đào sâu vào chi tiết của Lịch sử Calligraphy, cùng dạo bước về quá khứ để xem những vùng đất khác quanh quả địa cầu, Calligraphy đã phát triển như thế nào nhé!
Lịch sử kiểu chữ châu Âu bắt đầu từ người Phoenicia và người Hy Lạp. Những cư dân & xã hội vùng biển đã phát triển các bảng chữ cái đầu tiên có khả năng truyền tải thông điệp chính xác và dễ hiểu trên những khoảng cách xa.
Do đó, sự ưu việt của các chữ viết phương Tây xuất phát từ nhu cầu về tốc độ thực hiện và sự đơn giản trong các thể hiện. Sự hợp nhất giữa ngôn ngữ và nghệ thuật không hoàn toàn bắt đầu ở phương Tây cho đến khi chữ viết Latin được phát minh vào khoảng năm 600 trước Công nguyên tại Rome. Vào thế kỷ II và III, các chữ hoa vuông ban đầu được sử dụng trong tiếng Latin đã phát triển thành một loại chữ viết ban đầu, sau đó là chữ viết tròn.
Sách Kells, một bộ sách Gospel (giảng dạy của Kito giáo) do các nhà sư Celtic biên soạn vào thế kỷ VIII, minh họa cách chữ viết và hình ảnh Latin có thể được kết hợp để tạo ra một kiệt tác thị giác phức tạp.
Khi các trường đại học phát triển ở châu Âu trong suốt thế kỷ XII, nhu cầu về cỡ chữ nhỏ để hỗ trợ cho việc sử dụng giấy da ngày càng cạn kiệt cũng tăng theo. Giải pháp là phát triển phong cách Gothic, với kích thước góc cạnh và hẹp.
Sự ra đời của kính mắt vào thế kỷ XV cũng góp phần vào xu hướng chữ viết trở nên nhỏ hơn.
Tuy nhiên, các học giả theo chủ nghĩa nhân văn ở Ý vào thế kỷ XV cho rằng chữ viết Gothic quá mờ khi nhìn từ xa và quá dầy khi nhìn gần. Do đó, thời kỳ Phục hưng Ý đã tìm đến thời cổ đại để lấy cảm hứng. Những nhà thư pháp này đã hồi sinh sự đơn giản và rõ ràng vốn có trong chữ viết hoành tráng cũ, vẫn phổ biến trong in ấn ngày nay.
Gutenberg, một thợ in người Đức, đã phát minh ra máy in đầu tiên vào khoảng năm 1450. Kinh thánh 42 dòng của ông bao gồm các chữ cái Gothic, kiểu chữ đầu tiên trên thế giới.
Sau đó, Gutenberg đã thiết kế khoảng 300 kiểu chữ khác nhau để mô phỏng các kiểu chữ khác nhau một cách chính xác nhất có thể. Khi máy in của Gutenberg lan rộng khắp châu Âu, typhography (nghệ thuật sắp đặt chữ – thường sử dụng trong thiết kế) và typeface (hệ thống bao gồm các kiểu chữ, mỗi kiểu chữ là một typeface riêng biệt. Ví dụ: Arial là một kiểu typeface) mới cũng xuất hiện.
Do đó, các nhà thư pháp ở phương Tây đã phát triển thành nhà thiết kế phông chữ, tạo ra các kiểu chữ và bản in để đáp ứng nhu cầu của độc giả, chính phủ, nhà thơ, nhà xuất bản, nhà quảng cáo và những người yêu nghệ thuật.
Bạn có thể tham khảo chi tiết hơn về Lịch sử Calligraphy phương Tây tại đây.
“Truyền thống Hồi giáo coi thư pháp là một hình thức trực quan mạnh mẽ để truyền tải tính thẩm mỹ và thông điệp văn hóa.”- M. Siddiq.
Từ cuối thời Trung cổ, Bengal, một địa điểm lịch sử ở phía Đông Bắc của Tiểu lục địa Ấn Độ, đã là nguồn gốc của vô số hiện vật thư pháp.
Trước thời kỳ tiền Hồi giáo ở Bengal, hầu hết các nghệ sĩ và thợ thủ công không thể hiện tài năng thư pháp của mình. Thay vào đó, sau khi Hồi giáo xuất hiện ở Bengal vào thế kỷ thứ VII, nhiều vị vua Hồi giáo đã chỉ đạo rằng các dự án xây dựng lớn phải được hoàn thiện bằng các dòng chữ thư pháp.
“Người viết thư pháp là sứ giả của sự bí ẩn, và những người ít học sẽ không bao giờ có thể nắm vững hoặc hiểu được nó - Vương Hy Chi, Nhà thư pháp Trung Quốc.”- Zheng.
Thư pháp là một nghệ thuật văn hóa phổ biến ở Trung Quốc trong hàng nghìn năm. Nó đã phát triển theo thời gian và có nhiều phong cách khác nhau.
Thư pháp Trung Quốc nổi tiếng vì mối liên hệ chặt chẽ giữa hình thức và nội dung. Nó cũng đạt được danh tiếng huyền bí.
Các nhà thư pháp Trung Quốc nổi tiếng được cho là đã học nghề của họ từ Thượng đế hoặc từ giấc mơ của họ.
Thư pháp trở thành một lĩnh vực dành riêng cho một số ít trí thức có năng lực, có tài năng và giàu có. Nó bắt đầu gắn liền với sự thanh lịch của Nho giáo.
Những người ưu tú trong xã hội có thể thể hiện đẳng cấp của mình bằng cách trưng bày thư pháp khắp nhà. Những bức tranh treo này thường bao gồm thơ ca hoặc các bài học triết học về cách duy trì chuẩn mực cao về hành vi và đạo đức.
Phần lớn xã hội Trung Quốc chỉ có thể ngưỡng mộ tính thẩm mỹ của thư pháp xung quanh họ. Tuy nhiên, trong suốt những năm 1950 và đầu những năm 1960, bút máy và bút bi đã thay thế bút lông để trở thành công cụ viết phổ biến nhất. Ngay sau đó, chỉ có một nhóm nhỏ trí thức và họa sĩ lành nghề thực hành thư pháp một cách nghiêm túc.
“Viết thư pháp thực sự là công việc khó khăn: người ta có thể viết cùng một thứ nhiều lần và chỉ tạo ra được một hoặc hai ký tự mà mình thích. Mi Fu, một trong những nhà thư pháp nổi tiếng nhất của triều đại nhà Tống.”- H. Tomohiko.
Thư pháp Nhật Bản không lâu đời như thư pháp Trung Quốc, nhưng nó đóng vai trò quan trọng không kém trong văn hóa Nhật Bản. Vào thời điểm nền văn minh Nhật Bản cần một phương tiện để viết, họ đã có các ký tự Trung Quốc được mang từ Trung Quốc đại lục sang.
Kết quả là, người Nhật Bản cổ đại đã sở hữu một hệ thống chữ viết để viết ngôn ngữ của họ.
Thư pháp Việt Nam bao gồm hai dòng, thư pháp chữ Hán-Nôm cổ truyền và thư pháp chữ quốc ngữ (chữ Latinh) hiện đại.
Thư pháp chữ Hán và chữ Nôm nhìn chung là tương đồng với Trung Quốc. Tuy nhiên, một số tư liệu như trong Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn hay Vũ Trung Tùy bút của Phạm Đình Hổ cũng có nhắc đến một cách sơ lược và phân biệt lối viết chữ Hán của người Việt và người phương Bắc. Tại Việt Nam, những thư pháp gia được gọi là thầy đồ, ông đồ, ông tú, tương đương học vị sinh đồ và tú tài.
“Chữ Hán được xử dụng tại Việt Nam ít nhất từ 2000 năm trước. Các triều đại tông chủ độc lập tại Việt Nam đều coi chữ Hán, văn Hán là ngôn ngữ hành chính nhà nước, ngôn ngữ văn học… Thậm chí đến thời Nguyễn, triều đình Việt còn tự nhận là chủ thể kế thừa văn hóa, ngôn ngữ Hán chính thống, hơn nhà Thanh phía Bắc. Chữ Hán mất vị trí độc tôn, nhường vị thế cho chữ quốc ngữ kể từ đầu thế kỷ XX, đánh dấu bởi sự phế bỏ lối thi khoa cử cuối triều Nguyễn. Mặc dù không còn được coi trọng như trong quá khứ, chữ Hán vẫn tiếp tục được các nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc), Việt Nam Cộng hòa (miền Nam) sử dụng trong nhiều trường hợp quan phương. Chỉ sau khi nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành lập (1976), đặc biệt sau khi cuộc chiến Việt – Trung diễn ra (1979), chữ Hán mới chính thức bước ra khỏi vũ đài lịch sử và dần trở thành một thứ “chữ lạ”, bị gán ghép với nhiều giá trị “lạ” ”
— Vân-trai Trần-quang-Đức, Chữ Hán tại Việt Nam, Hà Nội, 2014
Thư pháp chữ Quốc ngữ
Thư pháp chữ Quốc ngữ xuất hiện từ thập niên 1930, giai đoạn chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) bắt đầu phổ biến hơn chữ Hán và chữ Nôm ở Việt Nam trong thời kỳ đô hộ của Thực dân Pháp.
Những người đam mê và theo đuổi học tập, nghiên cứu phân môn nghệ thuật chơi chữ này được cho là đã tôn ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác làm “Ông tổ” của thư pháp chữ Quốc ngữ. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm Bính Ngọ 1906, tại làng Mỹ Đức tỉnh Hà Tiên. Đông Hồ là một người có bàn tay tài hoa, vốn yêu thích viết chữ đẹp và nghệ thuật thư pháp và là người đầu tiên có ý tưởng dùng cọ lông và mực nghiên viết chữ Quốc ngữ. Vì thế ông được tôn là tổ sư của thư pháp chữ Quốc ngữ. Ông mất ngay khi đang đọc thơ trên bục giảng vào ngày 25/03/1969 nhằm năm Kỷ Dậu.
Bút tích chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ