Lời tựa: Có những kỷ niệm tưởng như đã phai mờ theo năm tháng, nhưng chỉ một câu thơ, một ánh mắt, hay một nét chữ cũng đủ đánh thức cả một miền ký ức. Giống như âm nhạc và thi ca, Calligraphy – nghệ thuật viết chữ đẹp – cũng là cách để giữ lại điều gì đó bền lâu giữa dòng chảy vô tình của thời gian. Khi viết từng chữ, ta đâu chỉ đang tạo ra hình dạng, mà đang khắc lại những cảm xúc, ký ức và rung động riêng của mình – để “những câu thơ còn xanh”, “những bài hát còn xanh” mãi mãi với thời gian.
Sáng tác của L.Tôn-xtôi được đánh giá như ‘một viện hàn lâm cho các nhà văn’ bởi những giá trị hiện thực lịch sử và những tìm tòi sáng tạo của một tư duy nghệ thuật đi trước thời gian. Có lẽ ông đã đi đúng hướng khi luôn quan niệm rằng “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu” để tạo ra “những đứa con tinh thần bất tử” ấy. Thật vậy, L.Tôn-xtôi nói riêng hay người nghệ sĩ nói chung luôn khao khát hiến dâng bầu nóng của mình cho nhân loại, sống và viết nhưng tác phẩm có sức âm vang mãnh liệt xuyên thủng giới hạn không gian, thời gian đến với trái tim độc giả mọi thời. Phải chăng, vì lí tưởng ấy, Văn Cao đã có trải lòng vô cùng chân thực và sâu sắc:
“Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em như hai giếng nước.”
Chúng ta đã quen thuộc với câu nói bất hủ của S.Shchedrin “nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng loại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Tiếng ngân “li la li la” bất diệt của nghệ thuật lại có sức mạnh quảng đại và diệu kỳ đến thế? “Thời gian qua kẽ tay” tức là sự trôi qua nhanh chóng mà lạnh lùng, lặng lẽ của thời gian. Chính vì thế nó “làm khô những chiếc lá”- tàn phá sức sống của thiên nhiên, làm bạc màu xanh của lá, cuống lá dù muốn níu lại với cuộc đời mà vẫn phải chịu đựng sự phũ phàng của quy luật sinh-tử. Con người luôn khao khát lưu giữ những hoài niệm, khắc ghi những kí ức đẹp tươi, nhưng chẳng thể tránh khỏi tình cảnh “Kỉ niệm trong tôi/ Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn”. Kỉ niệm của đời người cũng rơi vào quên lãng, vô tăm tích như hòn sỏi rơi vào cái giếng sâu hoắm, người ta muốn kiếm tìm mà chẳng thể thấy, muốn gần mà lại càng xa. Có thể, hòn sỏi ấy sẽ vang vọng, sẽ dội lại mạnh mẽ nhưng liệu là biết nó phát ra nơi đâu? hay chỉ là thứ thanh âm mơ hồ, trống rỗng của cõi lòng giàu mơ ước sống lại nơi quá khứ từng bình yêu, tươi đẹp biết mấy. Thời gian thật tàn nhẫn và độc ác. Nó cứ lạnh lùng trôi qua để lại sự tàn lụi, nuối tiếc, hoài niệm. Chẳng lẽ thời gian lướt qua và để lại những cuộc đời thừa, những chiếc lá khô héo, những kỉ niệm trôi chơi vơi nơi hư không hay sao?
Không. Cuộc đời chưa thật đáng buồn như thế. Cuộc đời là một bản nhạc buồn chỉ đến khi chúng ta được truyền cảm hứng, một chút nhựa sống gắn chặt chiếc lá trên nhành cây, những mạch máu để buộc chặt hòn sỏi khiến chúng không lao thẳng vào hư vô. Thời gian, mọi quy luật, giới hạn tầm thường sẽ phải “chào thua” trước sức mạnh của nghệ thuật. Chẳng phải Văn Cao đã khẳng định rất sâu sắc đầy hình ảnh hay sao: “Riêng những câu thơ còn xanh/ Riêng những bài hát còn xanh. “Câu thơ” và “những bài hát” là biểu tượng của nghệ thuật. Điệp từ ‘riêng’ và ‘còn xanh’ như một cách nhấn mạnh, khẳng định rõ ràng sự tồn tại duy nhất và trường tồn với thời gian của văn chương, nghệ thuật. Bởi vì “đôi mắt em như hai giếng nước” nên điều tưởng chừng như vô lí ấy lại trở thành chân lí. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là lối đi vào của nội tâm và là lối ra của tình cảm. “Tiếng lòng” luôn trong mát, ngọt lành, dào dạt, vô tận- như “hai giếng nước” và mang sức sống bất diệt bất chấp thời gian. Thời gian có muốn lạnh lùng thì trái tim ấm nóng sẽ cảm hóa, tình yêu nồng nàn sẽ khiến dòng chảy cuộc đời lưu giữ mãi những dư vị ngọt ngào, luôn trập tràn, mơn mởn bám víu lấy cả da thịt. Tức là, thời gian xóa nhòa tất cả, thời gian tàn phá thiên nhiên vạn vật, kể cả cuộc đời con người. Duy chỉ có văn học nghệ thuật và kỉ niệm về tình yêu là có sức sống lâu dài, không bị thời gian hủy hoại. Platon quan niệm nghệ thuật là “thần hứng”, Đecgavin lại khẳng định nó là “ngọn lửa thần”, Sóng Hồng lại nhấn mạnh nghệ thuật là “viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời”. Để tác phẩm tỏa sáng lấp lánh như ngọn hải đăng muôn đời thì nó phải luôn được thổi hồn bằng tình cảm, sự đồng cảm, nhiệt huyết của tác giả. Nhờ thế văn chương mới đạt được tính vạn năng chiếm lĩnh cuộc sống con người bằng giá trị giáo dục mà nó mang lại. Đó là sự bồi đắp về tư tưởng tình cảm, khiến lòng người rộng mở, phong phú và tinh tế hơn, nói như Thạch Lam nghệ thuật là thứ “khí giới thanh cao và đắc lực” vậy. Đến đây, chúng ta đã có thể trả lời được chắc chắn câu hỏi: Vì sao nghệ thuật thoát khỏi quy luật của sự băng loại? Vì sao chỉ mình nó không bao giờ thừa nhận cái chết? Bởi lẽ, nghệ thuật bao giờ cũng lưu giữ tình cảm, chứa đựng tư tưởng, có sức liên kết chặt chẽ như một thứ
Khi tâm hồn, khi cuộc sống tối sầm lại, bỗng những khúc ca, bài hát thời thơ ấu lại khẽ ngân vang, nghệ thuật đã vượt dòng thời gian bằng cách nhẹ nhàng và đúng lúc thế đấy. Tôi cảm nhận được lời ru “Cái cò bay lả bay la”, cho tôi biết thế nào là cánh cò trắng phau “Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng. Tuổi thơ dữ dội lớn lên bình yên nhờ lời tiếng lòng thổn thức, dạt dào của bà, của mẹ. Những lời ca dao, còn xanh, những điệu hát, còn xanh, những câu nói tình cảm còn xanh. Nghệ thuật là những gì giản dị và gần gũi nhất. Nhưng tại sao những tiếng ấy như “găm” vào tâm khảm mỗi chúng ta đến thế? Đó là sức sống mãnh liệt, đó là tình cảm, là máu thịt, là nguồn sống thấm đượm, dào dạt mẹ gửi gắm trong từng lời ca ấy. Thời gian có hủy hoại được gì? Khô lá? Tiếng sỏi vụn vỡ trong hư không? Chẳng ai quan tâm. Bởi vì dưới mái nhà giột nát, thời gian đã làm đôi tay mẹ run, mái tóc mẹ bạc, đôi mắt mẹ lắm ưu phiền chẳng còn trong trẻo như “hai giếng nước” nữa rồi. Chỉ có tình cảm dành cho con luôn đong đầy, chẳng bao giờ rơi vãi một giọt nào. “Con ho lòng mẹ tan tành/ Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”, “nuôi con chẳng quản chi thân/ Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”. Khi con đau, con ốm là lòng mẹ bao giờ ngủ yên. Nếu như mẹ là một chiếc lá nhỏ, mẹ sẵn sàng truyền nhựa sống cho con, mẹ mãi là động lực, là bến bờ bình yên chờ đợi con trở về. Tình mẹ như nước trong nguồn, luôn dào dạt tình yêu thương, luôn dội vào trái tim con một cách thật tự nhiên. Tất cả những kí ức đẹp đẽ ngày xưa ấy, phải chăng sẽ làm con thêm đau, thêm nhớ mẹ hay không?
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Mỗi buổi chiều buồn ấy, con lại đau đáu, lo lắng, xót xa, tình mẹ bất diệt mà tình con lại chẳng thể lớn bằng. Thời gian trôi qua, con chẳng được gần mẹ, “quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Sự im lặng của thời gian, không gian khiến con càng lo sợ, “buổi chiều” ấy:
“Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”
Hình ảnh người mẹ đã tan vào khói sương của hoài niệm. Chỉ còn lại trong trái tim người con gái xa quê một nỗi đau không bao giờ lành lặn. Nỗi đau ấy lại tiếp tục cộng hưởng ở những thế hệ bạn đọc mai sau. Nghệ thuật có sức đồng cảm lớn lao, sức sống mãnh liệt là nhờ những tình cảm chân thành, sâu sắc mà nó mang nặng. Không chỉ là tình mẫu tử, mà còn là tình cảm đôi lứa, những tâm sự tương tư, nỗi nhớ da diết, mãnh liệt của cô gái dành cho chàng trai:
“Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?”
Tình cảm lớn lao mà người phụ nữ đã dành trọn vẹn cho người chồng, người yêu, đứa con thật lớn lao, mãnh liệt, cao cả. Nhưng có những sự hi sinh lại mang đến thật nhiều đớn đau, xót xa. Tôi đang muốn nhắc đến nhân vật Vũ Nương – thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến (tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” – Nguyễn Dữ). Vũ Nương xuất thân từ gia đình nghèo nhưng nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Vẻ đẹp của Vũ Nương mang vẻ đẹp của một người phụ nữ – của chiếc bánh trôi trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Dù bị buôn bán như một món hàng, dù cuộc hôn nhân không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen, nàng vẫn cam chịu bởi đâu đổi thay được chút nào, “làm thân con gái thờ chồng nuôi con”. Khi tiễn chồng đi chinh chiến, Vũ Nương dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm. Nàng “chẳng dám mong” vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Vũ Nương cũng thông cảm cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng. Và xúc động nhất là những tâm tình nhớ nhung, trông chờ khắc khoải của nàng khi xa chồng: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”. Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
“Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
(Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng. Người đọc dễ dàng cảm nhận được tất cả những tiếng lòng mãnh liệt và dồi dào ấy. Thời gian trôi đi không làm lòng người chai sạn, tình cảm nhạt phai mà còn có phần sâu sắc hơn, khẳng định sự chắc chắn của sợi dây liên kết giữa trái tim với trái tim.
Ca dao có câu:
“Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.”
Vũ Nương là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ sự thiếu vắng tình cha. Bằng chứng chính là chiếc bóng ở phần sau câu chuyện mà nàng vẫn bảo đó là cha Đản. Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo, tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau và ra đi. Lời trăng trối cuối cùng của bà mẹ chồng đã đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Tác phẩm làm rung động biết bao trái tim bạn đọc vì những cảm nhận thật sâu sắc và thấm thía trong tình cảm của một người con dâu, người vợ, người mẹ. Người đọc dễ dàng vẽ nên một cái kết đẹp như một phần thưởng cho mọi hi sinh của nàng. Nhưng, hãy nhớ đến lời thốt lên đau đớn của Nguyễn Du cùng thời ấy: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Tưởng chừng nàng sẽ được hạnh phúc sau khi Trương Sinh thì sự hiểu lầm rồi nghi ngờ vô lí, cùng tính đa nghi, hay ghen đã đẩy nàng đến bước đường cùng, nàng trẫm dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Tình cảm đó, tình cảnh đó khiến cho sau này vua Lê Thánh Tông cho khắc vào bia đá trước miếu bà Trương những lời thơ là tiếng lòng, dung dị, giàu cảm xúc thương xót người phụ nữ bình dân bạc mệnh:
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn đầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi cho luỵ đến nàng.
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chằng lọ mấy đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Phải chăng mọi thời, tác phẩm của Nguyễn Dữ vẫn sống mãi, vẫn tìm được người tri âm tri kỉ nhờ tiếng nói nhân văn, nhân đạo dành cho người phụ nữ chịu nhiều đau đớn, bất công trong xã hội cũ? Thật vậy, người đọc sẽ đồng cảm, sẽ xót thương cho tình cảnh “gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu” của họ. Như quan điểm của L.Tônx tôi: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết,vắt kiện cạt những dòng suy nghĩ,hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Thời gian có bào mòn, phá hủy đi bao nhiêu thứ vô nghĩa ngoài kia, nhưng những giá trị, những kỉ niệm, tình cảm sẽ luôn được lưu giữ- đó là linh hồn của nghệ thuật, của một nguồn sống bất diệt.
Nghệ thuật là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn. Văn chương chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái mà nhỏ nhen, độc hại. Để tác phẩm đứng vững giữa dòng thời gian nghiệt ngã, hành trình người nghệ sĩ cũng thật gian nan và khó khăn. Bởi không có hi sinh, không đổ mồ hôi công sức thì tác phẩm không bao giờ có vị mặn của sự tình cảm, vị cay của hi sinh, vị ngọt của thành quả. Những dòng thơ cuối cùng bài thơ “Thơ ca” của Raxun Gamzatop đã đặt ra những câu hỏi rất thú vị, hành trình sáng tạo nghệ thuật:
“Là công việc tận cùng? Là rãnh rỗi bắt đầu?
Là cuộc hành trình ư? Hay chỉ là chỗ nghỉ?”
Lời kết
“Riêng những câu thơ còn xanh...” – và những nét chữ tay cũng vậy.
Có lẽ, trong một thế giới số hóa, nơi mọi thứ trở nên nhanh – gọn – tiện, Calligraphy lại là lời thì thầm dịu dàng của ký ức, của sự lắng lại. Tự tay viết lời nhắn. viết thiệp, lưu giữ nó trên trang giấy, cũng là một cách ta gìn giữ vẻ đẹp cá nhân – thứ cảm xúc mà chữ đánh máy không thể thay thế.
Nếu bạn đang tìm một nơi để bắt đầu hành trình học viết Calligraphy, hay muốn hiểu rõ hơn Calligraphy là gì, thì hãy thử dừng lại khám phá thêm về các lớp học Calligraphy online/offline tại Hà Nội của Heligraphy nha.