Cùng bình luận ý kiến trên và làm sáng tỏ bằng các tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nhé!
W.Izer đã từng khẳng định: “Xem một tác phẩm không nên xem nó nói ra những gì, mà phải xem nó không nói ra những gì. Chính ở chỗ im lặng có ý nghĩa thâm trầm, trong chỗ để trống về nghĩa đã ẩn giấu cái hiệu năng hiệu quả của tác phẩm. Nếu một tác phẩm mà tính chưa xác định, tính để trống quá ít hoặc là không có thì không thể xem là tác phẩm văn học hay, thậm chí không thể coi là tác phẩm nghệ thuật”. Đó là lí do tại sao viết truyện ngắn đều phải kiêng kị hai điều: hết chuyện là hết văn, hết văn là hết chuyện. Truyện ngắn tuyệt nhiên không bao giờ tách rời việc thể hiện tư tưởng sâu sắc đặc biệt là tính cô đọng, dồn nén và tinh tế.
Truyện ngắn là một “lát cắt của cuộc sống”. Nhà văn đã chọn lọc, chắt chiu “cưa lấy một khúc” để mang đến cho tác phẩm của mình nét tinh hoa, độc đáo và chân thật. Chính vì thế, họ kiêng kị, tuyệt đối tránh xa tình cảnh: hết chuyện là hết văn, hết văn là hết chuyện. Chuyện là những sự kiện, tình huống diễn ra trong tác phẩm. Văn là ngôn ngữ, lời văn được dùng làm phương tiện, hình thức diễn tả sự kiện đó. “Hết chuyện là hết văn” giống như khi sự kiện đi đến hồi kết thì ngôn từ cũng chết. Từ ngữ tồn tại chỉ đóng vai trò kể chuyện một cách giản đơn, nhạt nhòa, hời hợt. Nhà văn chưa chú trọng vào hình thức nghệ thuật hay thể hiện sự sáng tạo, thái độ kì công, đam mê săn sóc cho những hình ảnh, từ ngữ và chi tiết của mình. “Hết văn là hết chuyện” lại giống như khi lời văn dừng thì câu chuyện cũng chẳng được tiếp diễn. Tác giả không mở ra cho người đọc những khoảng trống khoảng vắng, không chứa đựng “chiều sâu chưa nói hết” thì tác phẩm cũng chết. Nội dung quá đơn điệu, nhàm chán, hời hợt. Nó không đủ sức mạnh lay động người đọc, không đủ sức âm vang hay gây ấn tượng mạnh mẽ. Nó không thể khiến chúng ta “suy tưởng không biết chán” để dành thời gian và trí tuệ cho sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Quả thật, tác giả phải mang trong mình khả năng sáng tạo hình thức nghệ thuật độc đáo, tinh tế và cái tài xử lí, kiến tạo nội dung, hay tư tưởng sâu sắc giúp cho tác phẩm sống mãi với thời gian.
Viết chuyện ngắn tức là lao động nghệ thuật. Các nhà văn luôn hết mình cống hiến những tác phẩm có giá trị cả nội dung và nghệ thuật tránh cái chết văn chương, tránh điều kiêng kị của nghệ thuật. Đó là lí do tại sao có những “cái tên” muôn đời vẫn được ghi nhớ, ca tụng. Ô Henri bằng con mắt đầy tình yêu thương, sự đồng cảm và tình huống truyện lôi cuốn, bất ngờ đặc trưng đã khắc họa nên khoảnh khắc đáng nhớ cuối tác phẩm. Chiếc lá “không bao giờ rụng” đã tiếp thêm sức mạnh, niềm hi vọng cho Giôn-xi vượt qua cái chết của sự bi quan, thất vọng và giúp cụ Bơ men có một cuộc sống mới nơi thiên đường xa xôi. Franz Kafka (Đức) – Tượng đài của sự tinh túy và dị biệt với phong cách “huyền thoại hóa”, đôi khi hoang đường của mình khiến người đọc luôn bị kích thích trí tưởng tượng, kéo dài sự cảm thụ của mình. Karel Capek (Séc) nổi tiếng với tập truyện ngắn “Hoa Cúc Xanh” – được xếp vào thể loại trinh thám – hình sự, nhưng truyện mang sự cách tân, phá cách cả về nội dung và hình thức thể loại. Thế giới nhân vật đời thường, nhỏ bé nhưng mang tinh thần Czech; giọng điệu khôi hài, trào tiếu, nhưng đầy nhân văn và cũng thấm đượm chất thơ. Văn học nước nhà cũng phong phú những cái tên vô cùng xuất sắc. Thạch Lam với “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho thể lại truyện ngắn trữ tình nổi tiếng với ngôn ngữ sâu lắng, nhẹ nhàng, bàng bạc chất thơ để đào sâu vào những cảm giác mơ hồ, mong manh trong tâm hồn con người. Vũ Trọng Phụng – ngòi bút châm biếm bậc thầy xoáy sâu vào sự tha hóa, suy đồi, đạo đức giả của tầng lớp thượng lưu đương thời. Riêng Nguyễn Tuân muốn thoát khỏi hiện thực, tìm về cái đẹp từng “một thời vang bóng”. Mỗi nhà văn đều sáng tạo, đều đào sâu đều lao tâm khổ tứ về tác phẩm của mình. Họ khao khát truyền tải hiện thực cuộc sống một cách đầy chân thực, nhân văn và thú vị. Nếu nhà văn kiêng kị, không mắc sai lầm khiến hết chuyện là hết văn, hết văn là hết chuyện thì đó là một tác giả thành công.
Nguyễn Tuân không hề hời hợt với nghệ thuật. Bởi vì ông suốt đời đi tìm cái đẹp để tạo nên phong cách độc đáo tài hoa uyên bác của mình. Ông đã đào sâu vào hiện thực cuộc sống, hay những trăn trở về cuộc đời để tạo nên một khoảnh khắc “xưa nay chưa từng có” trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của mình. Đó là cảnh cho chữ cuối tác phẩm. Không phải chốn thư phòng trang nhã mà là nơi ngục tù tăm tối, bẩn thỉu. Người cho chữ không phải người đức cao vọng trọng, phong thái ung dung, tự do mà là tử tù sắp ra pháp trường chân vướng gông xiềng. Người xin chữ lại chỉ là viên quản ngục đứng đầu nhà giam đầy rẫy xấu xa tăm tối. Mọi trật tự đều bị đảo lộn. Nếu đọc thoáng qua, ta dễ thấy thật vô lí và hoang đường. Nhưng nhờ lời văn đầy đĩnh đạc, trang trọng thu hút đã giữ chân độc giả ở lại để cùng suy ngẫm. Thì ra, nơi đây chẳng còn gì là giới hạn, bởi hai trái tim đã chung chí hướng, chỉ còn lại trật tự của nghệ thuật, của cái đẹp mà thôi. Mỗi nhân vật đều được Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm về cái đẹp. Huấn Cao – tử tù – hiện thân của sự thống nhất giữa tài năng, khí phách và thiên lương. Viên quản ngục đại diện cho cái đẹp tiềm ẩn. Nó được nảy sinh hoặc tồn tại cả trong lòng cái xấu cái ác. Nhưng cuối cùng, cái đẹp đã thắng. Nó mang một sức mạnh kì diệu giúp hướng thiện con người. Khoảnh khắc viên quản ngục nhận được chữ của Huấn Cao và “bái lĩnh” lời khuyên chân tình từ ông khiến chúng ta xúc động, càng thêm yêu, thêm trân trọng và gìn giữ để cái đẹp còn lại mãi với cuộc đời. Quả là một chi tiết chứa đựng cả đời người. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm, phải chú tâm để hiểu nhân vật và tư tưởng tác giả gửi gắm trong đó. Chính tài năng xây dựng tình huống chuyện éo le, nghịch lí cũng mang hiệu quả như vây. Đọc hết truyện mà trong lòng vẫn vương vấn, vẫn không ngừng suy tưởng viết tiếp câu chuyện về cái đẹp về nghệ thuật hay về tương lai đây?
Vũ Trọng Phụng với ngòi bút trào phúng bậc thầy đã vạch trần bộ mặt giả dối, tha hóa, suy đồi của xã hội thượng lưu đương thời. Để phản ánh chân thực xã hội “chó đểu” ấy, tác giả đã không ngại ngần đào sâu, lại gần để khám phá, tìm hiểu tránh cái nhìn bàng quan, hời hợt. Trong tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia” cảnh đưa đám đã để lại nhiều ấn tượng cho độc giả đặc biệt là điệp khúc “Đám cứ đi”. Nếu nhìn bề ngoài, ta sẽ thấy những vẻ mặt buồn rầu, tiếc thương thi thoảng thút thít tiếng khóc lóc. Nhưng bên trong lại toàn những câu chuyện tầm thường, dung tục: chuyện nhà cửa, đồ đạc, chuyện trai gái ve vãn, tán tỉnh nhau, chuyện bình phẩm hẹn hò ghen tuông, đào mỏ, ngoại tình. Điều ấy có thể khiến người đọc giật mình nếu như không xâu chuỗi toàn bộ câu chuyện của đám con cháu đại bất hiếu và cả những kẻ vô liêm sỉ ngoài xã hội. Nhờ thế, điệp khúc “Đám cứ đi” trở nên ấn tượng đến ám ảnh. Cái xấu vẫn ngang nhiên tồn tại, tiếp diễn một cách công khai mà không hề bị lên án, ngăn cản. Điều đó đồng nghĩa rằng cả xã hội thượng lưu ngày càng thối nát và đồng lõa với nhau. Đây là cái bi của người chết, cái hài của xã hội cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người. Nhờ cách nói đầy thâm thúy này, tên tuổi Vũ Trọng Phụng được người đọc quý mến vì chúng “làm cho kẻ trọc phú phải giật mình kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh” (Lưu Trọng Lư). Văn chương của ông không bao giờ là “một thứ tiêu khiển nếu nó than mây khốc gió” mà luôn chất đầy hiện thực trần trụi, để lại nhiều dư âm, khiến người đọc phải suy ngẫm, đôi khi giật mình lo lắng cảm giác như chính mình đang hiện thân trong tác phẩm vậy. Giá trị tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực mà còn khiến con người thức tỉnh, nhận ra sự thật bản thân mình bằng nội dung, tư tưởng, cách nói sâu sắc như Vũ Trọng Phụng đã thể hiện thành công vậy.
Nhà văn luôn tránh xa hai ngã rẽ tăm tối: hết chuyện là hết văn và hết văn là hết chuyện. Họ vẫn từng ngày đổi mới chính bản thân mình để cống hiến cho văn học những giá trị chân thực, có sức đồng cảm, lay động mãnh liệt. Họ có sự tâm huyết và sự trăn trở về nghề của họ. Họ không thỏa mãn với những gì đã có vì họ hiểu rằng cách tân chính là sinh lộ của nghệ thuật. Chúng ta cần ghi nhận và khích lệ họ. Mỗi người đọc cũng luôn tự xúc động tâm hồn mình để thấu hiểu tác phẩm cũng như để thấu hiểu trái tim người nghệ sĩ vậy.