Quả thật, nếu như tác phẩm nghệ thuật không gắn bó và phản ánh cuộc sống ở mặt này hay mặt khác thì cuối cùng chỉ “xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”. Nhưng nếu tác phẩm chỉ phản ảnh một cách nguyên si, bàng quan, thô cứng, như một hệ quả tất yếu, nó không thể được tiếp nhận hay trụ vững lâu dài. Không có tư tưởng, tác phẩm chỉ là lớp vỏ trống rỗng, vô nghĩa vậy. Tư tưởng lại chẳng giống như dòng nước đổ ầm ầm xuống các tảng đá, chỉ tung bọt trắng xóa mà là mạch nước thấm nhuần lòng đất và nuôi sống muôn cây. Đúng như câu nói của Bielinxki, văn học trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật.
Như vậy, nghệ thuật phải mang giá trị thực, cống hiến cái nhìn sắc sảo, khách quan, mới mẻ về cuộc sống qua những con mắt chủ quan của người nghệ sĩ: “thế giới trong mắt các nhà văn phải có một hình sắc riêng”. Hay nói cách khác, đã là người nghệ sĩ phải có phong cách nghệ thuật của minh. Phải chăng hình sắc riêng chính là cách nhìn, cách nghĩ, cách xúc cảm và cách nói riêng của mỗi tác giả. Yếu tố này vô cùng quan trọng, bởi chính phong cách, giọng điệu riêng của tác giả dễ ngấm và dễ thấm nhất đi với người đọc, giúp người nghệ sĩ ghi dấu trong lòng độc giả. Hãy cùng lột từng lớp nghĩa để hiểu thực sự phong cách nghệ thuật là gì mà mang ý nghĩa sống còn như thế!
1. HAI ĐỨA TRẺ
Thạch Lam không cần phép thần thông để vượt ra khỏi thế giới này vì ông nguyện gắn bó cả cuộc đời với hiện thực nơi phố huyện, ngoại ô. Ông yêu tâm hồn nhân hậu, đầy tình yêu thương dù cuộc sống còn bao cực nhọc, vất vả, tăm tối. Và hơn hết, chúng được thể hiện chân thực qua phong cách trữ tình lãng mạn với ngôn ngữ bàng bạc, giàu chất thơ. Có lẽ tác phẩm “Hai đứa trẻ” là minh chứng xuất sắc hơn cả. Mở đầu tác phẩm là tiếng trống thu không vang ra từng tiếng một, phương tây đỏ rực và đám mây ánh hồng như hòn than sắp tắt, dãy tre làng đen lại. Lại một buổi chiều êm. Đôi mắt Liên bị “bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Chao ôi, giọng điệu thật tha thiết, nhẹ nhàng, sâu lắng. Đúng như Etga Pô đã từng chia sẻ: Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ ca. Nhưng đây không phải thơ, mà là truyện ngắn giàu chất thơ. Ngôn ngữ quá chân chất, tinh tế, lãng mạn khiến người ta lầm tưởng. Cùng với đó, Thạch Lam thành công trong việc khắc họa nội tâm nhân vật mong manh, sâu kín và mơ hồ. Bóng tối “ngập đầy” đôi mắt của Liên như che mờ cả hi vọng, cả ánh sáng cuộc đời phía trước. Nỗi buồn buổi chiều quê “thấm thía” trong tâm hồn là sự hồi tưởng quá khứ tươi đẹp hạnh phúc hay chán chường tương lai vô nghĩa phía trước. Đến chính nhân vật cũng chẳng thể hiểu được chính mình. Vẻ đẹp thiên nhiên bình dị nhưng lại ẩn chứa một nỗi buồn bâng khuâng, thấm thía. Phải chăng là biện pháp “tả cảnh ngụ tình” mới được kiến tạo qua tác phẩm tự sự? Có lẽ chưa ai miêu tả hiện thực cuộc sống tăm tối mà lại “nhẹ nhàng” đến thế! Nhưng chúng lại vô cùng thu hút người đọc dù chẳng hề chứa đựng bất ngờ, hồi hộp hay phiêu lưu. Hơn nữa tác giả lại miêu tả cuộc sống nhạt nhòa quẩn quanh theo trình tự tự nhiên của dòng thời gian. Có lẽ để chờ đợi. Chờ một cái gì đó tươi sáng sẽ xuất hiện và khám phá ra tận cùng ngòi bút đặc trưng của Thạch Lam vậy.
Và chính hình ảnh đoàn tàu dưới tác phẩm đã mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và góp phần làm nổi bật lên phong cách của Thạch Lam. Đó là bút pháp tương phản đặc trưng cho thể loại truyện ngắn trữ tình. Từ bóng tối lay lắt đến ánh sáng rực rỡ, của đồng và kền lấp lánh. Từ sự yên ắng, tĩnh mịch đến âm thanh sôi động, ồn ào của tiếng còi xe, tiếng hành khách nói chuyện. Từ quá khứ, và hiện thực tăm tối khao khát về một tương lai tốt đẹp hơn. Đây chính là điểm sáng nhất trong toàn bộ tác phẩm. Tuy nhiên, khi cùng đề cập đến ước mơ ở cuối truyện nhưng nhân vật của Thạch Lam lại mang số phận hoàn toàn khác. Viên quản ngục trong truyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, đến cuối cùng cũng được khai sáng, tìm ra lối thoát để giữ lại được thiên lương trong sáng của mình. Quả không sai khi Nguyễn Tuân được mệnh danh là con người suốt đời đi tìm cái đẹp, tìm sự “toàn thiện, toàn mĩ”. Hay nhân vật Hà trong truyện ngắn “Khóc thầm” của Hồ Biểu Chánh, sau bao đớn đau, bi kịch, cuối cùng cô đã tự quyết định tương lai mới của mình: xin cha sang Pháp học “để mở rộng kiến thức, luyện tập tài nghệ, chừng nào học thành công rồi cô sẽ trở về làm đàn ông mà lo việc khai hóa”. Nhưng với “Hai đứa trẻ” thì khác. Cuộc sống lại trở về tăm tối. Ánh sáng lóe lên rồi vụt tắt. Âm thanh rộn ràng nhỏ dần đi rồi biến mất. Ước mơ hi vọng cũng chỉ là trong tiềm thức, khát khao chưa biết bao giờ mới được thực hiện. Mọi thứ lại y nguyên như cũ, Liên vẫn chỉ tờ mờ thấy đèn nơi quán nước chị Tý lại chiếu sáng một vùng nhỏ không chút đổi thay. Từ đây, ta thấy được sáng tạo độc đáo của Thạch Lam trong “lãnh địa riêng” của mình. Thành công của ông được tạo nên từ chủ đề mới lạ: cuộc sống mòn mỏi “một ngày như mọi ngày” của con người nơi phố huyện đến nghệ thuật miêu tả tâm lí với cảm xúc mơ hồ đặc trưng và cách khai thác những đặc sắc của thể loại truyện ngắn trữ tình. Đối với nghệ sĩ khác cũng vậy. Hiện thực và sáng tạo – luôn song hành để đưa lối nhà văn theo con đường nghệ thuật chân chính.
2. CHÍ PHÈO
Nam Cao với đề tài người nông dân nghèo và tri thức nghèo trong xã hội cũ đã phần nào chứng tỏ quan niệm của chính mình “Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân”. Đặc biệt, tác giả cũng không quên “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (“Đời thừa” – Nam Cao) để xây dựng nên phong cách nghệ thuật của mình. “Chí Phèo” viết về đề tài người nông dân nghèo có lẽ là tác phẩm phản ánh rõ nét nhất điều ấy. Người đọc dễ dàng cảm nhận được biệt tài phân tích tâm lí nhân vật, giọng điệu và thời gian luôn được biến đổi rất tinh tế xuôi theo dòng cảm xúc của nhân vật. Nhưng có lẽ ít ai thực sự để tâm đến những khoảnh khắc đối thoại độc thoại nội tâm sâu sắc trong tác phẩm. Đặc biệt là về nhân vật Chí Phèo. Rơi vào bi kịch hắn luôn tìm đến men say. Và chính hơi rượu đã khiến hắn làm việc mà đáng ra hắn nên làm từ lâu: giết Bá Kiến – kẻ đã khiến hắn bị dồn vào đường cùng, khiến đời hắn tăm tối thế này. Để đến cuối cùng, bàng hoàng và đau đớn nhất, hắn đã tuyệt vọng tự kết liễu đời mình và gào thét “Ai cho tao lương thiện?” và chìm trong im lặng… Mắt hắn trợn ngược, mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói nhưng không ra tiếng. Dù hắn không thể cất lên lời được nữa nhưng chúng ta vẫn có thể hiểu được lòng hắn nhờ vào tình huống độc thoại nội tâm sâu sắc này chăng? Phút cuối cùng, hắn đối diện với chính mình. Giá như, tôi có thể nói được lời xin lỗi cuối cùng với những ai vì tôi mà phải chịu đau đớn, khổ sở. Giá như, tôi đủ sức mạnh để lên tiếng tố cáo cái xã hội tăm tối, bất công, tàn ác này. Giá như, tôi có thể tâm sự với ai đó để thỏa nỗi lòng, để người ta hiểu được con người tôi, để họ biết được rằng tôi thèm yêu, khao khát sự đồng cảm đến nhường nào. Nhưng dù có nói ra, liệu còn ai quan tâm? Có lẽ tôi giữ cho riêng mình mà thôi. Một khoảng trời nhỏ bé, ấm áp của những ước mơ ngày nào. Hương cháo hành lại thoang thoảng đâu đây, có lẽ tôi mơ thật rồi…Quả thật, Nam Cao vô cùng xuất sắc trong việc tạo ra khoảng trống khoảng vắng mà vẫn chứa chan tinh thần nhân đạo đến thế. Nó thể hiện cách nhìn đời, nhìn người bằng con mắt sắc sảo, nhạy bén mà vẫn giàu tình yêu thương, sự vị tha. Qua đây, ta thấy được nỗi băn khoăn, day dứt về nhân phẩm, về nhân cách và bản lĩnh ngòi bút của Nam Cao. Đã từng có bình luận cho rằng, Nam Cao không làm xiếc ngôn từ bởi lời văn của ông rất chân thực, gần gũi nhưng lúc nào cũng cheo leo nơi ranh giới giữa con người và thú vật. Nhưng cuối cùng, các nhân vật của ông vẫn luôn giữ được trái tim con người dù phải chấp nhận đánh đổi cả mạng sống của mình.
3. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GĐ
Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Thật vậy, chi tiết đặc sắc đặt trong tình huống, hoàn cảnh chọn lọc đã khiến người đọc không ngừng liên tưởng, tư duy để cảm nhận và thấu hiểu ý nghĩa hàm ẩn, nội tâm sâu kín của nhân vật. Một người trong cuộc sống hàng ngày có thể vẫn hồn nhiên, ngây ngô nhưng trong tình thế khắc nghiệt, gian khổ hơn, họ lại bộc lộ tính cách can đảm, gan dạ, bình tĩnh. Đó là nhân vật Việt trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (Nguyễn Thi). Trước hết, Việt mang tính cách vô tư, trẻ con của một cậu con trai mới lớn. Việt hay tranh giành mọi thứ với chị, lại sợ ma, đêm trước khi ra trận, cũng chẳng biết để tâm lo toan đến việc gia đình. Khi nghe chị nói những lời nghiêm trang thì chỉ biết lăn ra ván, cười khì khì, lúc lại rình chụp đom đóm rồi ngủ quên mất. Sự hồn nhiên, tinh nghịch có phần cợt nhả, vô tâm ấy lại gần như biến mất hoàn toàn khi ra chiến trường. Dù là một người lính trẻ nhưng Việt đã lập công lớn khi tiêu diệt được một xe tăng của giặc. Khi bị thương đầu óc vẫn sáng suốt tỉnh táo, nhận ra đâu là tiếng súng nổ bạc nhược, vô hồn của địch và đâu là tiếng súng dậy trời đất, khí thế ngút trời của quân ta. Việt còn cảm thấy thân thiết và vui lạ vì nơi đó có đồng đội, cũng giống như mình, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tiếng súng như chi tiết biểu tượng, hướng về lí tưởng, về sự sống cao cả của cả dân tộc đang hết mình để dành lại độc lập, hạnh phúc. Việt còn từ chối viết thư kể về chiến công cho chị vì nó chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và đáp ứng nguyện vọng của má và của cả chính mình. Việt đã trưởng thành hơn rất nhiều. Tình huống của cuộc đời đã giúp Việt rèn luyện ý chí, niềm tin, sống tình cảm hơn, chí hướng rõ ràng hơn. Những chi tiết như bức thư chưa viết hay tiếng súng nơi xa đã tô đậm những thay đổi tích cực trong nội tâm và sự nhận thức của Việt. Nhờ vậy, tác phẩm khắc họa một nhân vật biểu tượng có sức hút, nổi bật về tính cách những người lính trẻ trong kháng chiến vừa nhiệt huyết, mạnh mẽ vừa vui tươi, đầy hứng hởi và tình yêu gia đình, đồng bào, đất nước.
4. CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Độc giả thường chú ý đến những tình huống hay chi tiết mang tính thay đổi số phận hay cuộc đời hay đôi khi là sự thức tỉnh của nội tâm nhân vật. Ta nhớ bát cháo hành có ý nghĩa như đến nào với Chí Phèo khi giúp hắn trở về là con người lương thiện ngày nào, biết mơ ước, biết thương thay cho tình cảnh của mình. Hay phiên tòa trong Chiếc thuyền ngoài xa giúp phóng viên Phùng vỡ ra nhiều điều, về cách nhìn cuộc sống cũng như là nghệ thuật. Nhưng tôi lại thích chi tiết, khoảnh khắc cuối cùng trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Trong tình huống, hiện thực thường thấy, một viên cai ngục chỉ là những kẻ tàn ác, tham lam, lừa lọc, vô cảm đại diện cho tay sai của triều đình mục ruỗng, thối nát. Nhưng khi đặt trong trật tự của nghệ thuật thì viên quản ngục lại hiện lên với tâm hồn, và thiên lương cao đẹp ví như “Một thanh âm trong trẻo xem vào giữa bản nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Chính Nguyễn Tuân đã khám phá ra ra “cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất” của nhân vật này để dựng nên tình huống truyện sâu sắc. Thật vậy, y đã dồn mọi sự trân trọng, khéo léo, nhẫn nhục, liều mạng để xin được chữ viết của Huấn Cao – người tử tù. Báu vật quý trên đời ấy đâu dễ gì mà lấy được. Y dùng cách “biệt nhỡn liên tài” để mong ông Huấn có chút để ý, khi bước vào ngục hỏi han, dù bị ông đuổi ra với thái độ khinh bạc nhưng y không chút cáu giận toan tính những đòn trả thù tàn bạo. Chi tiết “xưa nay chưa từng có” – cảnh cho chữ cuối tác phẩm đã đọng lại trong người đọc biết bao cảm xúc. Không phải chốn thư phòng trang nhã mà là nơi ngục tù tăm tối, bẩn thỉu. Người cho chữ không phải người đức cao vọng trọng, phong thái ung dung mà là tử tù sắp ra pháp trường chân vướng gông xiềng. Người xin chữ lại chỉ là viên quản ngục đứng đầu nhà giam đầy rẫy xấu xa tăm tối. Nhờ chi tiết và tình huống độc đáo, mới mẻ, chọn lọc như thế này, chúng ta mới ngẫm ra được một điều rằng: Thì ra, nơi đây chẳng còn gì là giới hạn, bởi hai trái tim đã chung chí hướng, chỉ còn lại trật tự của nghệ thuật, của cái đẹp mà thôi. Khoảnh khắc viên quản ngục nhận được chữ của Huấn Cao và “bái lĩnh” lời khuyên chân tình từ ông khiến chúng ta xúc động, càng thêm yêu, thêm trân trọng và gìn giữ để cái đẹp còn lại mãi với cuộc đời. Quả là một chi tiết chứa đựng cả đời người. Quả là tài năng xây dựng tình huống chuyện éo le, nghịch lí. Nó mang lại hiệu quả thực to lớn vì nó buộc người đọc phải suy ngẫm, phải chú tâm để hiểu nhân vật và tư tưởng tác giả thì mới thấy hết cái hay của tác phẩm ấy.
5. ĐÂY THÔN VĨ DẠ
“Người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình…” (Phan Cự Đệ). Lời nhận xét này dành cho những vần “Thơ điên” của Hàn Mạc Tử – nhà thơ kì lạ bậc nhất của văn học Việt Nam. Tuy luôn có sự “trộn lẫn” giữa trạng thái tỉnh và mơ, nhưng thi sĩ họ Hàn vẫn bộc lộ sâu sắc những xúc cảm chân thật, lạ kì của mình qua ngôn ngữ, hình ảnh đầy tính biểu tượng, đa nghĩa:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đọc câu thơ mà ta thấy mịt mờ như trong sương khói giăng dày đặc. Tỉnh hay mơ? Hữu hình hay vô hình? Nếu cứ thế này sao ta có thể thấu hiểu được nghĩa hay tâm tư, tình cảm của tác giả. Rốt cuộc là trắng như thế nào mà nhìn không ra? Rốt cuộc là sương khói kiểu gì mà phai lòa cả hình người. Sự kết hợp từ độc đáo đầy kinh ngạc mà cũng đầy kinh dị, nổi bật lên “cái mờ ảo của ngôn ngữ”. Cụm từ “khách đường xa, khách đường xa” vang lên đầy ám ảnh. Nhà thơ cô đơn đến nỗi chỉ dám mơ mà thôi. Ông sợ rằng khi tỉnh dậy, mọi mơ ước, khát khao sẽ biến mất, trái tim sẽ chết đi vì sự lạnh lùng.Đó chính là câu hỏi tu từ cuối bài thơvới đại từ “ai” mang nhiều ý nghĩa:“Ai biết tình ai có đậm đà?” Ai là “ai”? Người con gái xứ Huế mà ông từng tương tư? Hay tất thảy mọi người đang tồn tại trên cõi đời này? Một người ham sống mãnh liệt nơi trần thế mà phải nghi ngờ về tình người, tình đời hay sao? Chính những từ ngữ đầy mơ hồ, đa nghĩa ấy đã bộc lộ những cảm xúc khát khao, hi vọng đầy chân thành, đẹp đẽ của mình.Ông mơ ước khách đường xa đến thăm ông, vẫn nuôi niềm tin được ngắm lại cảnh nắng mới lên nơi hàng cau thương nhớ, nơi xanh mướt như ngọc của cánh vườn bình yên, vẫn mong ngóng con thuyền chở đầy ước mơ, khao khát ấy quay lại bên mình, dù là trong trí tưởng tượng đầy khắc khoải, âu lo. Hóa ra khoảng cách rất xa nhau giữa thực và mơ vẫn còn chỗ liền nhau ấy là ở trạng thái xúc cảm. Một hiện thực đầy đau đớn, uẩn khúc, ngang trái “Gió theo lối gió, mây đường mây”; ngày qua ngày, “dòng nước buồn thiu” đìu hiu, miên man bủa vây lấy cõi lòng đơn côi ấy. Từ đây, ta mới hiểu được cảm xúc, ước mơ chân thực đến nhường nào. Con người khi đã quá cô đơn, họ chỉ mong tìm thấy sự đồng cảm, sẻ chia. Họ chỉ mong được giải thoát khỏi sự chia li, trống rỗng mở tới tình yêu tươi đẹp ngày nào. Nơi ấy có con người, có thiên nhiên, có niềm vui, có sự gắn bó, chan hòa.Đi sâu vào từng thớ của từ ngữ chua chát như chanh, ta sẽ cảm nhận được vị ngọt đằm thắm, kì diệu. Hàn Mạc Tử đã thể hiện trái timgắn bó cuộc sống và tình yêu thương đến mọi người qua hình ảnh và ngôn ngữ đầy tính hàm súc và đa nghĩa. Hoài Thanhtừng cho rằng: Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử. Ta không hiểu được và chắc cũng không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và còn cô độc đến muôn kiếp. Tuy nhiên, có lẽ chính Hàn Mặc Tử cũng không biết mình đang tỉnh hay đang mơ, ông chỉ biết hồi tưởng, nhớ về quá khứ và khao khát cho thực tại, tương lai. Trong lòng ông cũng chất chứa đầy sự hỗn loạn, lạ kì, uẩn khúc. Để từ đó, ông mới sáng tác thi ca, để chia sẻ những cảm xúc của mình, bó gọn chúng trong những từ ngữ cô đọng, những khoảng trống khoảng vắng chứa đựng chiều sâu trong tâm hồn. Nhờ thế, tác giả đã cất lên “tiếng gọi đàn”, kiếm tìm tri âm tri kỉ. Vì giờ đây, cánh cửa trái tim thật sự trống vắng bởi đã rất lâu rồi không ai đến thăm, không ai khiến nó đập mạnh và thao thức từng nhịp. Đó là tác dụng không ngờ của ngôn ngữ mờ ảo mà cảm xúc lại rõ ràng, chân thành bộc lộ ước mơ, khát vọng chính đáng, không chỉ của người nghệ sĩ mà còn của bao nhiêu con người rơi vào hoàn cảnh ấy: muốn yêu nhưng không thể, muốn gần gũi nhưng bỗng càng xa rời.