Lời tựa: Dưới đây là phần mở đầu và giải thích nhận định trên.
Từ lâu, văn chương đã thấm đẫm tâm hồn tôi. Bắt nguồn từ lời ru ngọt ngào đằm thắm của bà, của mẹ, cho tôi yêu thêm vẻ đẹp cuộc sống, là chất chứa ánh vàng đồng lúa chín hay phơi phới trắng phau đàn cò bay liệng trời cao? Trưởng thành hơn chút, lời văn thơ như đầy tầng ý hơn, ẩn bên trong bao tầng vỉa của cuộc sống. Khai phá được chúng, ta sẽ nắm trong tay mọi sự thật, mọi lăng kính của vũ trụ này. Chính vì vậy, mỗi tác phẩm luôn hàm chứa muôn vàn ý nghĩa. Nhưng liệu mỗi thời đại khác nhau, điều ấy có thay đổi, về cách thức hay nội dung? Lí giải về điều này, Lê Đạt đã đưa ra nhận xét: “Trong một bài thơ cổ điển, nghĩa thường đến đúng hẹn. Trong một bài thơ hiện đại nghĩa thường đến trễ giờ.”
Vô cùng yêu thích văn chương, tôi say mê tìm tòi, khám phá các thời đại văn học. Tôi thường khao khát chạm đến tận cùng của đáy chữ cứ luẩn quẩn suốt trường thiên văn học. Phải làm sao hiểu cho hết kì thu con chữ, thấu hết cái hay mọi thời. Không thể không nhắc đến mười thế kỉ trung đại, là mười thế kỉ con chữ quằn quại lăn lóc với đời. Chao ôi, toàn màu đen kịt, ngột ngạt của bất công, ai oán, khổ sở, đau xót và tuyệt vọng trong xã hội cũ. Đó chính là văn học cổ điển mà Lê Đạt nhắc tới, những bài thơ đến “đúng hẹn”. Cát nghĩa từ “đúng hẹn” như đặc trưng cơ bản của văn học trung đại. Do bị ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Trung Hoa nên chúng có quy phạm chặt chẽ về thể loại và hình thức, đề cao các mẫu mực cổ xưa. Hơn hết, các tác giả có “thói quen” sử dụng các hình thức có sẵn, các điển tích, hình ảnh tượng trưng quen thuộc. Có lẽ bởi vậy, khi đọc văn thơ trung đại, nghĩa thường xuất hiện “đúng hẹn”, hiện hữu ngay từ đầu bởi ta đã quá quen với các cấu trúc ấy. Những hình ảnh điển tích điển cố thân quen, đôi khi trở thành mô tuýp, từ khóa khi chạm tới phạm trù nào đó cũng khiến ta mường tưởng tượng ngay được. Đọc thơ mà ngỡ như thấu ngay được nghĩa, cảm ngay được nỗi lòng của tác giả. Tuy nhiên, cùng một hình ảnh, đôi khi khiến ta bị kính thích bởi khao khát khám phá một ý niệm nào đó mới lạ và sâu sắc hơn. Nhưng thật đáng tiếc, sự sáng tạo cá nhân bị hạn chế do hệ thống ước lệ chung, kho thi liệu chung, ngôn ngữ nghệ thuật chung hoàn cảnh lịch sử chung. Chính vì sự coi nhẹ biểu hiện cá tính nghệ sĩ mà văn học trung đại chỉ bần bận lên màu sắc chung, quá phổ biến. Đó là sự hạn chế lớn của giai đoạn văn học này. Suy cho cùng, sự “đúng hẹn”- gặp nghĩa chữ nơi đầu con chữ mang đến sự rõ ràng hiển ngôn, sự hữu hình của nội dung.
Xuôi theo con thuyền thời gian, tôi bị choáng ngợp bởi sự phát triển của văn học hiện đại. Đúng như Vũ Ngọc Phan từng nói: “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như ba mươi năm của người”. Rốt cuộc nó đã đạt đến cảnh giới nào khiến ý nghĩa sâu sắc mà kín đáo như thế, khiến người đọc phải lần mò, chao đảo lột từng lớp vỏ để tìm ra ý nghĩa tinh túy nhất. Hay nói cách khác, văn học trong giai đoạn này thực sự có nhiều sự đột phá táo bạo cả về hình thức lẫn nội dung. Tính đa nghĩa, tính “lắc lẻo” của con chữ bật ra khỏi giới hạn mực thước trước đây tạo ra ý nghĩa “trễ giờ”. Sự “mã hóa” trong ngôn từ cũng được vận dụng một cách tinh tế, đặc sắc. Đó chính là khoảng trống khoảng vắng, những chỗ im lặng mà mang ý nghĩa thâm thúy. Đọc thơ hiện đại ta thấy phóng khoáng hơn, rộng mở hơn như vừa bước ra khỏi khuôn nẹp trật hẹp. Đó là phong cách nghệ thuật chăng? Điều này trở thành “cú sốc mạnh” cho độc giả bởi cái lạ và chất kích thích từ nó. “Nghệ thuật là tôi, khoa học là chúng ta” – người nghệ sĩ không sai khi bắt kịp thời đại này. Đến cả nhà phê bình nổi tiếng như Hoài Thanh cũng phải thốt lên tôi chưa bao giờ thấy một thời đại nào phong phú như thế. Kì thực, nghĩa thơ đến “trễ” sẽ tạo ra khoái cảm cho người đọc. Họ không chỉ muốn tận hưởng mà còn muốn mài công sức ra để khám phá, để đánh động trí tuệ, để có cảm giác chinh phục được tri thức, đã ngộ ra được bao điều ý nghĩa. Cố nhiên, sự đến trễ của ý thơ trong lòng người đọc lại mang nhiều giá trị như thế. “Trễ” không phải là chậm chạp hay trì trệ mà đó là khoảng thời gian đủ cho tư duy văn học, đủ cho sự liên hệ, kết nối trái tim với trái tim, đủ cho tiếng gọi đàn vang rộng.
Qua đây, chúng ta có thể cảm nhận được rằng, dù là văn học trung đại hay văn học hiện đại thì đều bộc lộ những ý niệm về cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Tuy nhiên sự khác nhau cơ bản nằm ở phong cách của tác giả mà phong cách của thời đại. Nếu như cái tôi trung đại bị “co rúm” thì bước sang hiện đại chúng lại bung tỏa rực rỡ. Họ không chấp nhận bị hòa tan trong biển cả văn chương vì “thà một phút huy hoàng rồi chợt tối /còn hơn le lói suốt trăm năm”. Văn học trung đại với nhiều hình ảnh quen thuộc, cùng thủ pháp ước lệ đặc sắc khiến ý nghĩa hiển ngôn, đúng hẹn. Văn học hiện đại với nhiều cách tân sáng tạo trong mọi mặt khiến ý nghĩa bị ẩn giấu, trễ giờ. Bạn sẽ thích thưởng thức tác phẩm thuộc thời đại nào hơn? Người ta cứ ngỡ văn học trung đại luôn làm nền, làm bước đà, là đòn bảy để văn học hiện đại nâng lên một tầng cao mới. Nhưng họ đã lầm. Văn học trung đại vẫn bước đi trên nền tảng vững chắc và an toàn đặc biệt là trong lòng người đọc. Chỉ cần nhắc đến Kiều thôi, người ta đã có thể hình dung ra được cuộc đời, cảm thông được nỗi đau, sự bất công trong xã hội cũ. Là ý nghĩa hiển ngôn, người ta dễ dàng cảm thông cho nàng là vì thế. Đã bao năm đi qua mà người ta vẫn nhớ, vẫn xúc động hình bóng một thời đau đớn, khắc khoải của phận hồng nhan bạc phận trong quá khứ. Đó là kiệt tác của Đại thi hào Nguyễn Du cũng như của nền văn học bao đời nay. Thế mới nói, đây chính là giai đoạn tạo nên bởi những tác giả, tác phẩm kinh điển, bất hủ mà ai cũng đã từng lắng nghe và khắc sâu trong tâm hồn. Như vậy, dù là trong thời đại nào, đúng hẹn hay trễ hẹn, các tác phẩm chân chính vẫn mãi có giá trị mẫu mực và sâu sắc.